Quẻ 26 - Sơn Thiên Đại Súc

Quẻ Sơn Thiên Đại Súc còn gọi là quẻ Đại Súc (大畜), là quẻ thứ 26 trong Kinh Dịch. Quẻ có Nội quái là ☰ Càn (乾), tức Trời (天), Ngoại quái là ☶ Cấn (乾), tức Núi (山). Quẻ Sơn Thiên Đại Súc là một trong 8 quẻ thuộc Cung Cấn, có ngũ hành Thổ. Tượng quẻ "Trận Thế Đắc Khai" là quẻ Cát.

Lời Kinh:

Quẻ Quẻ 26 - Sơn Thiên Đại Súc

大畜: 利貞, 不家食,吉; 利涉大川.

Đại súc: Lợi trinh, bất gia thực, cát; lợi thiệp đại xuyên.

Có nghĩa là: Chứa lớn: Chính đáng (theo chính đạo) thì lợi. Không phải ăn cơm nhà (tức được hưởng lộc của vua), tốt; vượt qua sông lớn (làm việc khó khăn, gian nguy để giúp nước) thì lợi.

Lời Triệu:

"Trận Thế Đắc Khai - Không còn trở ngại"

Quẻ Sơn Thiên Đại Súc đứng số 26 trong số 64 quẻ Kinh dịch. Quẻ Sơn Thiên Đại Súc có điềm "không còn trở ngại", là quẻ tốt trong kinh dịch. Gặp vận tốt, người đi có tin về, xuất hành đại cát, mọi sự thuận lợi.
Sơn Thiên Đại Súc có Nội quái là: ☰ Càn hay Trời. Ngoại quái là: ☶ Cấn hay Núi. Ngũ hành quẻ: Thổ.
"Đại súc" có nghĩa là "sức chứa lớn", vì thế có hình tượng "thế trận được mở".
"Trận thế đắc khai" là chuyện Quảng Thành Tử bị vây khốn trong trận Đăng hỏa, sai tướng Phan Thiên Ấn tế lễ mở trận Quần Tiên, phá tan trận Đăng Hỏa. Người gieo được quẻ này có điềm "không còn trở ngại".
Hình tượng của quẻ Sơn Thiên Đại Súc
Buồn bã khiến mặt mày ủ rũ, việc khó luôn canh cánh bên lòng. Từ nay mở ra trận thế mới, tùy ý hoạt động không còn lo gì nữa.
Ngày xưa, khi Triệu Tử Long bảo vệ gia quyến Lưu Bị đã gieo được quẻ này. Quả nhiên, ông ta đại chiến dốc Trường Bản, vượt trùng vây bảo vệ A Đẩu. Đúng là ứng với quẻ "Trận thế đắc khai", thật là "không còn trở ngại".

Tượng Quẻ:

Ngoại quái cấn, nội quái càn. càn chính là cương kiện, còn cấn là đốc thực chính vì thế không nên quá cứng rắn sẽ được đại chính rất tốt.

Tụ dã. Tích tụ. Chứa tụ, súc tích, lắng tụ một chỗ, dự trữ, đựng, để dành. Đồng loại hoan hội chi tượng: đồng loại hội họp vui vẻ, cục bộ.

Mình không có càn bậy (Vô vọng) rồi bản thân mới có thể chứa được nhiều tài, đức, hoài bão, nên sau quẻ vô vọng, tới quẻ Đại súc. Chữ súc trong quẻ này cũng là chữ súc trong quẻ Phong thiên tiểu súc, có ba nghĩa: Nhóm chứa, nuôi nấng, ngăn lại. Thoán từ dùng theo nghĩa chứa (súc tích, uẩn súc), mà Hào từ dùng với nghĩa ngăn lại.

Trên là núi, dưới là trời, núi mà chứa được trời thì sức chứa của nó thật lớn, cho nên gọi là Đại súc. Nói về bậc quân tử thì phải “chứa” tài đức, nghĩa là tu luyện cho tài đức uẩn súc; trước hết phải cương kiện như quẻ Càn, phải rất thành thực, rực rỡ (có văn vẻ) như quẻ Cấn, mà những đức đó phải mỗi ngày một mới, nhật tân kì đức (Thoán truyện); phải biết cho đến nơi đến chốn, làm cho đến nơi đến chốn, đủ cả tri lẫn hành (đại tượng truyện).

Người nào “uẩn súc” được như vậy thì được quốc gia nuôi, và khi xã hội gặp gian truân thì cứu được (vượt qua sông lớn), vì ứng với trời (như hào 5 ở vị cao ứng với hào 2 trong quẻ Càn là trời).

Hào của quẻ:

Hào Diễn giải
Hào 6

6. 上九: 何天之衢, 亨.

Thượng cửu: hà thiên chi cù, hanh.

Dịch: Hào trên cùng, dương. Sao mà thông suốt như dương trên trời vậy.

Giảng: tới hào này là thời gian cản đã cùng rồi, hết trở ngại, đường thật rộng lớn, bát ngát như đường trên trời. Có nghĩa là đại lớn được thi hành.

Hào 5

5. 六五: 豶豕之牙, 吉.

Lục ngũ: Phần thỉ chi nha, cát.

Dịch: Hào 5, âm: Như thể ngăn cái nanh con heo đã thiến thì tốt.

Giảng: Hào 2 là dương đã già giặn, không non nớt như hào 1, cho nên dữ hơn 1, ví như nanh con heo (rừng). Hào 5 muốn chặn nó, mà chỉ bẻ nanh con heo thôi thì nó vẫn con hung; tốt hơn hết là thiến nó để cho nó hết dữ, lúc đó dù nó còn nanh cũng không hay cắn nữa. Hào 5, chặn được hào 2 là nhờ cách đó, trừ tận gốc, không tốn công mà kết quả tốt.

Hào 4

4. 六四: 童牛之牿, 元吉.

Lục tứ: đồng ngưu chi cốc, nguyên cát.

Dịch: Hào 4, âm: như con bò mộng còn non, mới nhú sừng, đặt ngay mảnh gỗ chặn sừng nó, thì rất tốt.

Giảng: Trong quẻ Đại súc, hào âm này vẫn ngăn chặn được hào 1, dương, vì tuy nó âm nhu, nhưng hào 1 ở đầu quẻ là dương còn non, như con bò mọng mới nhú sừng, nếu kịp thời ngăn cản ngay, chặn sừng nó lại thì không tốn công mà có kết quả rất tốt. đại ý là phải đề phòng ngay từ khi họa mới có mòi phát.

Hào 3

3. 九三: 良馬逐; 利艱貞.日閑輿衛, 利有攸往.

Cửu tam: Lương mã trục; lợi gian trinh,

Nhật nhàn dư vệ, lợi hữu du vãng.

Dịch: Hào 3, dương : như hai con ngựa tốt chạy đua nhau; phải chịu khó giữ đạo chính thì có lợi, lại phải thường ngày luyện tập, dự bị các đồ hộ thân thì tiến lên mới có lợi.

Giảng: Chúng ta để ý: hai hào 1, 2 đều là dương cương mà đều bị hai hào âm nhu (4 và 5) ngăn cản, vì tuy cương mà ở trong nội quái (quẻ dưới), cũng như các tướng tài năng phải phục tùng Võ Hậu, Từ Hi Thái Hậu. Không phải thời nào dương cũng thắng âm cả đâu. Tới hào 3 này, may được hào trên cùng cũng là dương, ứng với mình như một đồng chí, cho nên cả hai hăng hái như hai con ngựa tốt đua nhau chạy; nhưng hăng quá mà không nhớ rằng trên đường gặp nhiều gian nan, không luyện tập đề phòng hàng ngày thì không tiến được xa, nên Hào từ khuyên như trên.

Hào 2

2. 九二: 輿說輹.

Cửu nhị: Dư thoát phúc.

Dịch: Hào 2, dương, như chiếc xe đã tháo cái trục.

Giảng: Hào này cũng bị hào 5, âm, ngăn lại như hào 1, nhưng vì đắc trung (ở giữa nội quái), nên biết tự ngăn mình (như tự tháo cái trục xe ra) để thôi không đi. Như vậy không có lỗi.

Hào 1

1. 初九.有厲.利已.

Sơ cửu: Hữu lệ, lợi dĩ.

Dịch: Hào 1, dương : có nguy, ngưng lại thì lợi.

Giảng: Hào này cương kiện, muốn tiến lên nhưng bị hào 4, âm ở trên chặn lại (trong các hào, súc có nghĩa là ngăn chứ không có nghĩa là chứa), nếu cố tiến thì nguy, ngưng lại thì tốt.

Xem thêm

Xin xăm online

Xin Xăm

Tra cứu SIM Phong Thủy

Nhập số điện thoại