Quẻ 7 - Địa Thủy Sư

Quẻ Địa Thủy Sư còn gọi là quẻ Sư (師), là quẻ thứ 7 trong Kinh Dịch. Quẻ có Nội quái là ☵ Khảm (坎), tức Nước (水), Ngoại quái là ☷ Khôn (坎), tức Đất (地). Quẻ Địa Thủy Sư là một trong 8 quẻ thuộc Cung Khảm, có ngũ hành Thủy. Tượng quẻ "Mã Đáo Thành Công" là quẻ Cát.

Lời Kinh:

Quẻ Quẻ 7 - Địa Thủy Sư

師: 貞 , 丈 人 吉 , 无 咎 .

Sư: Trinh, trượng nhân cát, vô cữu.

Có nghĩa là: quân đội mà chính đáng (có thể hiểu là bên chí), có người chỉ huy lão thành thì tốt, không lỗi.

(Có sách hảo hai chữ “trượng [ 丈] nhân” chính là “đại [大] nhân) người tài đức)

Lời Triệu:

"Mã Đáo Thành Công - Mọi sự tốt đẹp"

Quẻ Địa Thủy Sư đứng số 7 trong số 64 quẻ Kinh dịch. Quẻ Địa Thủy Sư có điềm "Mọi sự tốt đẹp", là quẻ cát trong Kinh dịch. Bệnh tật khỏi hẳn, của mất lại về, đi xa có tin, mọi việc suôn sẻ.
Ngũ hành quẻ: Thủy.
"Sư" có nghĩa là "quần chúng", vô địch, không thể đánh bại được, vì vậy nó có hình tượng "lập tức thành công".
"Mã đáo" có nghĩa là ngựa vừa đến. "Mã đáo thành công" là chuyện một vị tướng phụng mệnh thảo phạt giặc cỏ, lên ngựa xông vào trại giặc, lập tức thành công. Ý chỉ khi ngựa vừa đến đã thành công ngay, sự việc mới bắt tay làm đã thành công ngay.
Gieo được quẻ Địa Thủy Sư này là điềm "Mọi sự tốt đẹp".
Hình tượng của quẻ Địa Thủy Sư
Tướng nhận chỉ của vua xuất chinh, cưỡi ngựa khỏe, kéo cung cứng, bách bộ xuyên dương, bắn rơi đồng tiền, quân lính reo hò phấn khởi.
Ngày xưa, để thu phục Quan Công, Tào Tháo đã tiếp đãi trọng hậu ông ta. Lúc đó, Quan Công gieo được quẻ này. Quả nhiên, ông ta lên ngựa ra trận, chém đầu Hoa Hùng mang về mà rượu còn chưa nguội. Đúng là ứng với quẻ "Mã đáo thành công", thật là "mọi sự tốt đẹp".

Tượng Quẻ:

Quẻ sư dưới khảm trên khôn. khảm là nước. khôn là đất. đời xưa ngụ hình ở nông, thường núp cái rất hiểm chỗ cả thuận, giấu cái không thể lường trong chỗ rất tĩnh.

Giải nghĩa: Chúng dã. Chúng trợ. Đông chúng, vừa làm thầy, vừa làm bạn, học hỏi lẫn nhau, nắm tay nhau qua truông, nâng đỡ. Sĩ chúng ủng tòng chi tượng: tượng quần chúng ủng hộ nhau.

Kiện tụng là tranh nhau, tranh nhau thì lập phe, có đám đông nổi lên; cho nên sau quẻ Tụng tới quẻ Sư – Sư là đám đông, cũng có nghĩa là quân đội.

Trên là Khôn, dưới là Khảm mà sao lại có nghĩa là đám đông, là quân đội ? có 4 cách giảng:

- Đại tượng truyện bảo Khôn là đất, Khảm là nước, ở giữa đất có nước tụ lại, tượng là quần chúng nhóm họp thành đám đông.

- Chu Hi bảo ở dưới, Khảm là hiểm; ở trên, Khôn là thuận; người xưa gởi binh ở trong việc nông (thời bình là nông dân, nhưng vẫn tập tành võ bị, thời loạn thì thành lính), như vậy là giấu cái hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông).

- Chu Hi còn giảng cách nữa: hào 2 là dương, nằm ở giữa nội quái là tượng ông tướng, 5 hào kia là âm nhu, mềm mại, giao quyền cho 2 điều khiển quân lính (4 hào kia).

Thoán truyện giảng: xuất quân là việc nguy hiểm (quẻ Khảm), độc hại, nhưng nếu xuất quân vì chính nghĩa (trinh chính), để trừ bạo an dân thì dân sẽ theo (Khôn: thuận), sẽ giúp đỡ mình, mình sai khiến được, thì sẽ tốt, lập được nghiệp vương thống trị thiên hạ, không có tội lỗi.

Hào của quẻ:

Hào Diễn giải
Hào 6

6. 上 六 : 大 君 有 命 . 開 國 承 家 , 小 人 勿 用 .

Thượng lục: đại quân hữu mệnh.

Khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng.

Dịch Hào trên cùng, âm: (Sau khi khải hòan) vua ra lệnh gì quan hệ đến việc mở nước trị nhà thì đừng dùng kẻ tiểu nhân (dù họ có công chiến đấu).

Giảng: Hào này ở trên cùng, trỏ lúc thành công, vua luận công mà khen thưởng. Kẻ tiểu nhân tuy có tài chiến đấu, lập được công thì cũng chỉ thưởng tiền bạc thôi, không nên phong đất cho để cai trị, giao cho địa vị trọng yếu trong nước, vì công việc kiến thiết quốc gia phải người có tài, đức mới gánh nổi.

Hào 5

5. 六 五 : 田 有 禽 . 利 執 言 . 无 咎 . 長 子 帥 師 . 弟 子 輿 尸 . 貞 凶 .

Lục ngũ: Điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô Cửu.

Trưởng tử xuất sư, đệ tử dư thi, trinh hung.

Dịch: Hào 5 âm: Như đồng cỏ muông thú (về phá), bắt chúng (chữ ngôn [言] ở đây,dùng như chữ chi [之], thay chữ cầm [禽]) thì lợi.

(dùng) người lão thành làm tướng súy để cầm quân, nếu dùng bọn trẻ (tài kém) thì phải chở thây mà về, và dù danh nghĩa chính đáng (trinh) kết quả vẫn xấu.

Giảng: Hào 5 này, âm, ở vị chí tôn, tượng ông vua ôn nhu và thuận đạo trung, không gây chiến, vì quân địch lấn cõi (như muông thú ở rừng về phá đồng) nên phải đánh đuổi đi, bắt chúng mà không có lỗi.

Ông vua ấy giao quyền cầm quân cho vị lão thành (hào 2 ởdưới) là người xứng đáng , nếu giao cho bạn trẻ bất tài (như hào 3) hoặc để chúng tham gia vào thì sẽ thất bại, dù chiến tranh có chính nghĩa, cũng phải chở xác về , mang nhục.

Hào 4

4. 六 四 : 師, 左 次 , 无 咎 .

Lục tứ: Sư, tả thứ, vô Cửu.

Dịch: Hào 4, âm: Ra quân rồi mà lui về đóng (thứ) ở phía sau (tả) không có lỗi.

Giảng: hào này tuy bất trung nhưng đắc chính, không có tài (hào âm) nhưng biết liệu sức mình, hãy tạm lui, không tiến để khỏi hao quân, đó là phép thường hễ gặp địch mạnh thì tránh đi, cho nên không bị lỗi.

Hào 3

3. 六 三 : 師, 或 輿 尸 , 凶 .

Lục tam: Sư, hoặc dư thi, hung.

Dịch: Hào 3, âm: bất chính (vì hào âm ở ngôi dương) lại bất trung ,xấu, thất trận, có thể phải chở xác chết về . .

Hào 2

2. 九 二 : 在 師, 中, 吉, 无 咎 , 王 三 錫 命 .

Cửu nhị: Tại sư, trung, cát, vô Cửu, vương tam tích mệnh.

Dịch: Hào 2 dương: Trong quân, có đức trung thì tốt, không tội lỗi, được vua ba lần ban thưởng.

Giảng: Hào này là hào dương độc nhất trong quẻ, thống lĩnh quần âm. Nó đắc cương , đắc trung, lại được hào 5, âm ở trên ứng thuận với nó, như một vị nguyên thủ giao toàn quyền cho một vị tướng. Nhờ nó đắc trung; nên tốt, không bị tội lỗi, mà được nhiều lần ban thưởng (có người giảng là được nhiều lần vua trao lệnh cho).

Hào 1

1. 初 六 : 師, 出 以 律 , 否 臧, 凶 .

Sơ lục: sư, xuất dĩ luật, phủ tàng, hung

Dịch: Hào 1, âm: Ra quân thì phải có kỷ luật, không khéo (chữ phủ tàng nghĩa là bất thiện ) thi xấu.

Giảng: Đây là bước đầu ra quân, phải cẩn thận, có kỷ luật nghiêm nhưng khéo để khỏi mất lòng dân, quân.

Xem thêm

Xin xăm online

Xin Xăm

Tra cứu SIM Phong Thủy

Nhập số điện thoại